background

Cải thiện tính khả dụng

Cải thiện tính khả dụng

Rất nhiều nhầm lẫn giữa khái niệm tính khả dụng với độ tin cậy của thiết bị. Trong thực tế, tính khả dụng chỉ là một phần của tính toán. Tính khả dụng là thời gian thực tế mà máy móc hoặc hệ thống có khả năng hoạt động theo phần trăm tổng thời gian hoạt động theo kế hoạch. Tỷ lệ khả dụng không nên nhầm lẫn với tính khả dụng tổng thể. Tính khả dụng tổng thể được tính bằng tổng thời gian lịch làm ước số, không phải thời gian hoạt động theo kế hoạch.

Hầu hết các nhà máy không có chức năng kỹ thuật độ tin cậy chính thức cũng như không có chương trình trực tiếp giải quyết các vấn đề về độ tin cậy. Trong một số trường hợp, các chương trình quản lý bảo dưỡng và chất lượng sản phẩm xem xét độ tin cậy của thiết bị là một vấn đề. Tuy nhiên, các chương trình này không bao gồm các chương trình cụ thể sẽ cải thiện độ tin cậy. Một phần, thiếu sót này được tạo ra bởi không thể phân công đơn vị chịu trách nhiệm về độ tin cậy của thiết bị. Bảo dưỡng đóng vai trò quan trọng; nhưng sản xuất, kỹ thuật, mua hàng, bán hàng và đào tạo cũng vậy. Mỗi bộ phận chức năng có tác động trực tiếp khác nhau đến hoạt động của nhà máy.
Triển khai công tác bảo dưỡng kém được coi là yếu tố chi phối làm hạn chế năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và lợi nhuận. Trong một số trường hợp, nhận thức này là hợp lý; nhưng hầu hết các vấn đề về độ tin cậy ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của nhà máy không phải do bảo dưỡng kém. Nhiều vấn đề bảo dưỡng ghi nhận được thực sự nằm ngoài chức năng bảo dưỡng. Quy trình vận hành không đúng, thiết kế kém hoặc lập kế hoạch sản xuất không phù hợp là nguồn thực sự của nhiều vấn đề về độ tin cậy của nhà máy. Các bộ phận chức năng này  cũng phải đảm nhận vai trò tích cực trong độ tin cậy của thiết bị của nhà máy.
Độ tin cậy tài sản bắt đầu với tiêu chí kỹ thuật và lựa chọn công nghệ. Các bộ phận kỹ thuật và mua sắm phải chủ động xem xét độ tin cậy là một phần của công nghệ. Chi phí vòng đời, khả năng duy trì và yêu cầu kỹ năng của nhân viên phải là yếu tố quan trọng trong quá trình ra quyết định. Giá mua của các hệ thống mới và thay thế không phải là thước đo thực sự của chi phí thiết bị hoặc tác động của nó đến hoạt động chung của nhà máy.
Mua hàng cũng phải phán đoán tốt khi lựa chọn các thành phần thay thế cho cả bảo trì và sản xuất. Quá nhiều nhà máy chọn nhà cung cấp và các phụ tùng/ thiết bị chỉ dựa trên chi phí. Ít hoặc không xem xét đến chi phí vòng đời phụ tùng/ thiết bị hoặc tác động của nó đến độ tin cậy. Ví dụ, một khách hàng đã chọn mua một ổ trục tải trọng nhẹ cho quạt hút lò đúc quan trọng. Quyết định dựa trên giá mua ít hơn $ 5 cho mỗi vòng bi. Vì quyết định này, thời gian hư hỏng trung bình giữa các quạt hút này đã giảm từ sáu năm xuống còn sáu tháng. Mua hàng phải đảm nhận một vai trò tích cực trong độ tin cậy của thiết bị. Không có sự hỗ trợ và tham gia tích cực của họ, mức độ hoạt động chấp nhận thối thiểu của nhà máy là không thể đạt được.
Bộ phận sản xuất có vai trò lớn nhất. Đối với mỗi vấn đề liên quan đến bảo dưỡng, có 50 vấn đề được tạo ra bởi các quy trình hoặc phương pháp vận hành kém. Lỗi vận hành là một nguyên nhân rõ ràng gây ra ngừng hoạt động của thiết bị và vấn đề chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bộ phận sản xuất gây ra tác động tiêu cực đến hoạt động là lớn hơn nhiều. Theo kết quả đánh giá tại Nhà máy Tandem 4-High, 80% các vấn đề làm hạn chế hoạt động, chất lượng sản phẩm và chi phí của hệ thống là do các quy trình và thực hiện vận hành kém. Hầu hết các vấn đề đều dễ dàng sửa chữa và không yêu cầu đầu tư tài chính.
Bán hàng và tiếp thị ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy của thiết bị. Bộ phận bán hàng xác định cách thức hoạt động của hầu hết các nhà máy. Đối với một số nhà máy sản xuất rời rạc, điều này không gây ra vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong các nhà máy chế biến liên tục, như thép, giấy, hóa chất, dầu khí chiến lược bán hàng kém có thể có tác động nghiêm trọng, tiêu cực đến hiệu suất của nhà máy. Nếu bộ phận bán hàng đặt Nhà máy trong tình trạng đơn đặt hàng ngắn hạn, số lượng thấp thì số lượng và tần suất thiết lập (setup) máy sẽ tăng lên. Việc dừng liên tục, thay đổi thiết lập và khởi động lại có ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy, chất lượng sản phẩm và công suất. 
Kỹ năng của nhân viên cũng là một phần quan trọng của độ tin cậy của thiết bị. Người vận hành và nhân viên bảo dưỡng phải có kiến ​​thức đầy đủ và các quy trình thích hợp để tuân theo trước khi đạt được mức hoạt động chấp nhận được. Bộ phận đào tạo phải đảm nhận vai trò trong việc hỗ trợ độ tin cậy của thiết bị. Nếu không có sự hỗ trợ về đào tạo, các cấp độ kỹ năng tối thiểu sẽ không đạt được. Các quy trình tiêu chuẩn không đầy đủ cho cả vận hành và bảo dưỡng cũng tác động vào độ tin cậy kém. Trong hầu hết các trường hợp, quy trình vận hành tiêu chuẩn và bảo dưỡng tiêu chuẩn không cung cấp đủ dữ liệu để vận hành hoặc bảo dưỡng thiết bị nhà máy đúng cách. Những thiếu sót này thường được xem là lỗi của nhân viên. Các cấp quản lý cho rằng lực lượng lao động thiếu các kỹ năng hoặc động lực để thực hiện nhiệm vụ của họ. Trong thực tế, sự thiếu sót nằm ở quy trình chứ không phải nhân viên.
Ai chịu trách nhiệm về độ tin cậy tài sản? Câu trả lời vừa đơn giản vừa phức tạp. Tất cả mọi người phải có vai trò tích cực. Một chương trình cải thiện độ tin cậy khả thi phải bắt đầu từ cấp quản lý doanh nghiệp. Họ phải thiết lập và hỗ trợ các chính sách tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc sử dụng tối đa các hệ thống sản xuất và công nghệ. Không có sự hỗ trợ tích cực của họ, cải thiện rất khó đạt được. Thật không may, thiếu sự lãnh đạo và hỗ trợ của công ty thường phổ biến và là nguyên nhân chính yếu làm giảm độ tin cậy của thiết bị.
Bộ phận kỹ thuật nhà máy, mua hàng, bán hàng và tiếp thị, sản xuất, bảo dưỡng và đào tạo là các bộ phận quan trọng. Chi phí vòng đời, dễ bảo trì và độ tin cậy phải trở thành trọng tâm chính của các bộ phận này. Các bộ phận phải làm việc cùng nhau với một mục tiêu chung ─ để đạt được hiệu suất tốt nhất từ ​​tất cả các thiết bị và hệ thống của nhà máy. Nếu cải thiện độ tin cậy của thiết bị, thì chất lượng sản phẩm, công suất và lợi nhuận sẽ đi kèm theo sau.
Các phân tích thống kê được thực hiện bởi một số tổ chức công nghiệp, thương mại và chuyên nghiệp chỉ ra thực tế rằng bảo dưỡng là nguồn chính của ít hơn 20% tổn thất. Phần lớn, tới 85%, là do sự thiếu sót trong hoạt động các bộ phận chức năng khác trong nhà máy hoặc công ty. Do đó, giải pháp để cải thiện tính khả dụng rõ ràng cần một cách tiếp cận toàn diện để chuản hóa đối với các hoạt động kinh doanh và công việc, đảm bảo tính sẵn sàng, chất lượng tốt nhất và tổng chi phí sở hữu thấp nhất. Các cách tiếp cận tập trung duy nhất, chẳng hạn như cải tiến bảo dưỡng, đơn giản là sẽ không tạo ra đủ lợi ích để đảm bảo nỗ lực mà không thể ảnh hưởng đến phần lớn các yếu tố làm hạn chế tính khả dụng.
Nếu bạn muốn cải thiện tính khả dụng tại doanh nghiệp của bạn, hay liên hệ với KTT để được tư vấn, hỗ trợ